Phần III: Những hành động, cơ sở pháp lý của Việt Nam khẳng định chủ quyền trên Biển Đông
Đã nhiều lần Việt Nam khẳng định chủ quyền đối với hai quần đảo này. Việt Nam khẳng định Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 là cơ sở pháp lý rất quan trọng, quy định toàn diện và triệt để về phạm vi quyền được hưởng vùng biển giữa Việt Nam và Trung Quốc. Theo đó, Việt Nam đã có chủ quyền lâu đời trên hai quần đảo này và được chứng minh bằng các bằng chứng lịch sử và pháp lý.
Mới đây nhất, trong Công hàm gửi lên Liên Hợp Quốc ngày 30/3/2020, Chính phủ Việt Nam đã nhắc lại: “Việt Nam có đầy đủ chứng cứ lịch sử và cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, phù hợp với các quy định của luật pháp quốc tế”. Do vậy, Trung Quốc hoàn toàn không có chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trên Biển Đông.
Các chiến sĩ đang ngày đêm canh gác trên Đảo Trường Sa
Theo Mục 4, Điều 2 của Hiến chương Liên hợp quốc năm 1945 quy định: “Tất cả các quốc gia thành viên Liên hợp quốc từ bỏ đe dọa bằng vũ lực hoặc sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế nhằm chống lại sự bất khả xâm phạm về lãnh thổ hay nền độc lập chính trị của bất kỳ quốc gia nào cũng như bằng cách khác trái với những mục đích của Liên hợp quốc”. Mặc dù Trung Quốc đang chiếm đóng toàn bộ quần đảo Hoàng Sa và 07 cấu trúc thuộc Trường Sa, nhưng vì Trung Quốc đã sử dụng vũ lực để chiếm đóng nên đã vi phạm pháp luật quốc tế. Ngoài ra, theo Nghị Quyết 2625 của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc ngày 24/10/1970 cũng quy định rõ không chấp nhận việc dùng vũ lực để xâm phạm toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia khác. Vì vậy cho dù Trung Quốc đang thực tế chiếm đóng các cấu trúc này, nhưng Trung Quốc vẫn không thể có chủ quyền hợp pháp đối với các cấu trúc này.
Mỗi viên gạch xây dựng các công trình trên quần đảo Trường Sa
đều khắc nổi hình Quốc huy nước CHXHCN Việt Nam
Việc thành lập “Khu Nam Sa” và “Khu Tây Sa” của Trung Quốc cũng vi phạm luật biển quốc tế, trong đó có Công ước Luật Biển của Liên Hợp Quốc năm 1982 (UNCLOS). Trong Công hàm ngày 30/3/2020, Việt Nam cũng tuyên bố rõ ràng: “…các bãi ngầm, hoặc cấu trúc lúc chìm lúc nổi không phải là đối tượng thụ đắc lãnh thổ và không có vùng biển riêng”. Quan điểm này dựa trên nguyên tắc quan trọng của Luật biển quốc tế “đất thống trị biển”. Đây là một nguyên tắc chung của luật quốc tế, được phát triển từ luật tập quán quốc tế và qua các phán quyết của các toà án quốc tế. Khởi đầu từ Vụ Thềm lục địa Biển Bắc năm 1969, được nhắc lại trong nhiều phán quyết sau này của Toà án Công lý Quốc tế (ICJ) sau đó, nguyên tắc này đã được pháp điển hoá trong quy định tại Mục 2, Điều 121 của UNCLOS 1982.
Theo nguyên tắc này, các cấu trúc lúc chìm lúc nổi cùng các cấu trúc luôn chìm dưới mặt nước biển không thể là lãnh thổ để yêu sách chủ quyền tại đó, bởi vì, chủ quyền chỉ có thể được yêu sách đối với đất liền và đảo (islands) được coi là một vùng đất tự nhiên nhưng có nước bao bọc xung quanh và luôn nổi trên mặt nước khi thuỷ triều lên. Chính vì vậy, việc yêu sách chủ quyền đối với các cấu trúc lúc chìm lúc nổi và các bãi ngầm luôn chìm dưới mặt nước biển của Chính phủ Trung Quốc là vi phạm nghiêm trọng đến Luật biển quốc tế. Chúng ta nên nhớ, Bãi Macclefiled mà Trung Quốc gọi là Trung Sa là các cấu trúc luôn chìm dưới mặt nước biển. Chính vì vậy, việc tuyên bố thành lập chính quyền quản lý các khu vực này của Trung Quốc đi ngược lại luật quốc tế. Việc này càng thể hiện tham vọng độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc khi đồng loạt triển khai nhiều hành động cả trên thực địa, pháp lý, hành chính như vậy.
Các nước khác trong khu vực có chủ quyền trên Biển Đông cũng đã có những phát ngôn, hành động chống trả lại những hành động vi phạm luật pháp quốc tế ngang ngược, trắng trợn của Trung Quốc.
Hãy tôn trọng luật pháp quốc tế! Hãy tôn trọng chủ quyền của mỗi nước!
Cùng chung tay bảo vệ sự bình yên, hòa bình trên khu vực Biển Đông nói riêng và trên toàn thế giới nói chung, vì một môi trường cạnh tranh lành mạnh để thúc đẩy sự phát triển kinh tế, giao lưu văn hóa trong khu vực và trên thế giới./.
Hits: 30